Lược Sử Dòng Tộc
Trần Văn "Câu Quảng"

I. LƯỢC SỬ TỘC TRẦN VIỆT NAM

Họ Trần là một trong một số họ phổ biến tại Việt Nam tuy nhiên chưa có thống kê chính xác tỷ lệ người mang họ Trần tại Việt Nam là bao nhiêu. Người họ Trần xuất phát từ đâu và có mặt tại Việt Nam lúc nào vẫn còn là một đề tài mà nhiều nhà khoa học lịch sử và con cháu họ Trần tại Việt Nam đang tiếp tục nghiên cứu, hiện có nhiều bài viết về họ Trần trên mạng có thể tham khảo.

Theo chính sử thì bà Man Thiện (Trần Thị Đoan) là mẹ của Hai Bà Trưng được xem như là người mang họ Trần xưa nhất ở Việt Nam, tất nhiên trước đó cũng đã có dòng họ Trần tại Việt Nam nhưng không có sự kiện đặc thù nào nên không ghi vào chính sử. Sự kiện Hai Bà Trưng khởi nghĩa vào ngày 30 tháng 01 năm Tân Sửu (năm 41 sau công nguyên) đánh quân Hán, như vậy  cho thấy họ Trần đã định cư ở Việt Nam từ trước công nguyên nên mới có có con cháu có chiến công giữ nước hiễn hách như Hai Bà Trưng còn lưu lại cho đến hàng ngàn năm sau trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Ngoài ra, trước Vương triều Trần Việt Nam có một số người mang họ Trần nổi tiếng như: Trần Lãm là danh tướng trong thời kỳ loạn 12 Sứ quân thế kỷ thứ 10, hoặc ông Trần Điền được coi là ông tổ của nghề kim hoàn Việt Nam.

Đa số các nghiên cứu về họ Trần tại Việt Nam đều tập trung vào Nhà Trần, tức là Vương triều Trần Việt Nam về sau này. Sau đây là một giả thiết trên Wikipedia tiếng Việt:

Trần (chữ Hán) là một họ người Trung QuốcĐài LoanHồng KôngViệt NamHàn QuốcSingapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam Trung Quốc. Tại Trung Hoa Dân Quốc , đây cũng là họ phổ biến nhất, chiếm 11% dân số.[1] Tại Singapore, họ này thỉnh thoảng được viết với ký tự Latinh là Chen. Theo tiếng Quảng Đông, họ này cũng được viết với ký tự Latinh là Chan. Một số cách viết Latinh khác (từ các phương ngữ khác nhau) cũng có thể bắt gặp là Tan (ở Malaysia), TangDing (tiếng Phúc Châu), Chin (tiếng Khách Giatiếng Nhật: ちん), Chun hay Jin (진) (tiếng Triều Tiên), Zen (giọng Thượng Hải). Họ Trần theo tiếng Hàn là Kim

Theo lối chiết tự, Trần còn được gọi ẩn dụ là Đông A (do chữ Trần 陳 được ghép từ hai thành phần là Đông (東) và A (阿)). Khi nhà Trần tại Việt Nam giành chiến thắng trong ba cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên, khí thế chiến đấu của quân dân nhà Trần được gọi là “hào khí Đông A[2].

“Tổ tiên của dòng dõi nhà Trần tại Việt Nam có nguồn gốc dân tộc Mân ở quận Tần Châu, tỉnh Phúc KiếnTrung HoaTrần Quốc Kinh từ Phúc Kiến sang Việt Nam vào khoảng năm 1110, thời vua Lý Nhân Tông (10721127), lúc đầu cư trú tại xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh ngày nay; sống bằng nghề chài lưới trên sông nước, trên đường làm ăn chuyển dần vào hương Tức Mạc, huyện Thiên Trường (Nam Định). Đến đời con là Trần Hấp dời mộ tổ sang sinh sống tại Tam Đường, phủ Long Hưng, nay là vùng đất thuộc Thái Bình.[4] Trần Hấp sinh ra Trần Lý và Trần Hoằng NghiTrần Lý sinh ra Trần Thừa (sau được tôn là Trần Thái Tổ), Trần Tự Khánh và Trần Thị DungTrần Hoằng Nghi sinh được ba người con trai: Trần An QuốcTrần An Bang và Trần Thủ Độ.[5]

Dưới thời Lê Thánh Tông, dòng họ này phải đổi sang họ Trình. Sau khi lên ngôi và trừ khử Trần Cảo, Lê Lợi đã tiến hành ban Quốc tích và ban họ cho một số đại thần như Trần Nguyên Hãn thành Lê Hãn. Sau khi Trần Nguyên Hãn bị diệt, nhà Lê đã truy tìm con cháu của ông khiến con trai là Trần Trung Khoản tự là Trung Lương phải tục bỏ đi và đổi ra họ Quách [6] và Trần Đăng Huy phải đổi sang họ Đào.

Sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi được hai tháng, ông hạ chiếu đổi tên tất cả những ai đang phạm vào chữ huý của Hoàng Thái hậu Phạm Ngọc Trần.[7] Nhà vua lấy cớ rằng: Cung từ Hoàng Thái hậu họ Phạm, tên huý là Ngọc Trần, nên yết thị cho trong kinh thành, ngoài các đạo, phàm nơi có “họ Trần” đổi chép làm chữ “Trình”. Lệnh này được thực thi triệt để, ai cũng phải tuân theo. Ví như trường hợp của ông Trình Khanh (vốn họ Hoàng sau đổi sang họ Trần nhưng sau lại phải đổi lại thành họ Trình), sau này đến Trần Khắc Minh (cháu của Trình Khanh) mới đổi lại họ Trần.”

Tuy nhiên cũng có nghiên cứu không đồng ý với giả thiết nêu trên của Wikipedia, Old Buff đặt vấn đề như sau:

“Nhà Trần Việt Nam có nguồn gốc từ đâu? Trong chính sử Việt Nam, các nhà sử học có nêu nhà Trần có nguồn gốc từ những người chài lưới sinh sống trên hệ thống sông ngòi ở Bắc Việt Nam. Tới thời cụ Trần Hấp mới chuyển lên bờ làm hào trưởng một vùng châu thổ hạ lưu sông Hồng và từng bước tiến lên vũ đài chính trị vào nửa cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13. Ngoài ra, các nguồn chính sử không cho biết thêm chi tiết về nguồn gốc nhà Trần giai đoạn trước cụ Trần Quốc Kinh là thân phụ cụ Trần Hấp .

Nhiều nguồn sử liệu ngoài luồng và diễn đàn đã dùng các tư liệu trong gia phả của chi nhà Trần lưu vong là Ả Trần – Trần Ích Tắc trên đất Trung Quốc để nói rằng nhà Trần có nguồn gốc Mân Việt tại quận Tần Châu, tỉnh Phúc Kiến, sang Việt Nam khoảng năm 1110 thời Lý Nhân Tông.

Nhân nói chuyện nguồn gốc nhà Trần, Old Buff nêu ra một số thắc mắc:

– Nếu chuyến di cư khoảng năm 1110 của tổ tiên nhà Trần là có thật thì đâu là nguyên nhân? Những năm đầu thế kỷ 12, tuy nhà Bắc Tống đang có chiến tranh với nhà Kim nhưng vùng Phúc Kiến ở phía Nam ngoài vùng chiến sự thì đâu có bị ảnh hưởng. Hơn nữa, các vạn chài lại ít có mối liên hệ và quản thác từ chính quyền các cấp của nhà Tống nên càng không thể vì lý do ngoại xâm, nội bức mà phải bỏ xứ lưu vong!

– Nếu tổ tiên nhà Trần có thực ở Mân Việt thì hơn 1000 năm đồng hoá vào Hán tộc, họ đã bị Hán hoá sâu sắc, đâu còn dễ dàng hội nhập vào dân cư Đại Việt. Chính sử không thấy ghi nhận có bất kỳ xung đột văn hoá nào giữa nhóm người đánh cá họ Trần với cư dân nông nghiệp châu thổ sông Hồng. Tất nhiên sẽ có người nói hôn nhân nội tộc nhà Trần là sự khác biệt truyền thống. Buff cho rằng thời đó tín ngưỡng và truyền thống Tam giáo đồng nguyên của Đại Việt không hề cực đoan như Nho giáo thống trị thời Hậu Lê và nhà Nguyễn sau này. Ngoài ra, hôn nhân nội tộc xuất phát từ cải cách chính trị của Trần Thủ Độ trước bài học chuyển ngôi hậu cung thời Lý Mạt.

– Nếu tổ tiên nhà Trần có thực ở Mân Việt thì chắc chắn họ còn lưu nhiều liên hệ về phong tục, tập quán và huyết thống với cố hương. Những điều này tồn tại rất mạnh trong đời sống người Hán hoặc Việt bị Hán hoá di cư vì sinh nhai hoặc chiến sự như chúng ta thấy sau này. Tuy nhiên, nhà Trần bản thân không có bất kỳ mối liên hệ nào với vùng đất Mân Việt. Ngay cả khi thế lực còn mạnh, được lời cầu hoà làm thân của Trần Hữu Lượng để tham gia chống Nguyên và Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương, nhà Trần cũng không tham gia tranh đoạt vương quyền, lãnh thổ ở Trung Nguyên. Đây vốn là điều không hợp logic nếu xét theo tham vọng lãnh thổ của các thế lực phong kiến.

– Nhà Trần đã tạo ra một dòng Phật giáo mang đậm chất Việt nam – Dòng thiền Trúc Lâm khác biệt hoàn toàn với các dòng thiền đang thịnh hành tại Trung Nguyên thời đó.

– Ghi gia phả nhà Trần có nguồn từ Mân Việt, con cháu Á Trần Trần Ích Tắc có thể nguỵ tạo nguồn gốc nhằm tránh sự phân biệt đối xử của dân Hán tại vùng chi Trần Ích Tắc lưu vong.

Trên đây là một số thiển ý Buff trình bày nhằm làm rõ những ghi chú sai lệch về nguồn gốc nhà Trần mà một số diễn đàn và nguồn sử ngoài luồng có ghi. Rất mong nhận được các thông tin thảo luận của các bạn!”

Như vậy vấn đề còn đang nghiên cứu rất hấp dẫn và hy vọng dần dần sẽ làm sáng tỏ nguồn gốc dòng họ Trần Việt Nam. Tuy nhiên như đã nói trên, dòng họ Trần đã xuất hiện tại Việt Nam từ rất sớm, trước công nguyên, cho đến nay đã trên 2000 năm và con cháu họ Trần đã đang tham gia vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cho đến ngày nay. Có nhiều người con dòng họ Trần và nhất là Vương triều Trần đã làm rạng rỡ non sông đất nước. Chúng ta con cháu dòng họ Trần Việt Nam nhất định theo gương của cha ông quyết tâm xây dựng dòng họ ngày một lớn mạnh, tham gia vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu, dân chủ, giàu mạnh.

II. LƯỢC SỬ TỘC TRẦN TẠI QUẢNG NAM

Tộc Trần làm một trong các dòng họ xuất hiện rất sớm trên đất Quảng Nam, theo nghiên cứu của nhiều nhánh họ Trần tại Quảng Nam thì đa số đều từ dòng họ Trần của  hai tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa di cư vào định cư trên đất Quảng Nam trong nhiều thời kỳ khác nhau. Ví dụ: nhánh tộc Trần Phước tại Thanh Châu, Duy Xuyên; tại Lộc Đại, Quế Sơn; tại Núi Lỡ, Đại Lộc hay Phú Triêm, Điện Bàn là một trong các nhánh tộc Trần lớn tại Quảng Nam, đến nay con cháu của các nhánh này đã đến đời thứ 24, 25. Ngoài ra nhánh tộc Trần Văn cũng có rất nhiều tại Quảng Nam, tuy nhiên các nhánh này rời rạc không liên kết được như nhánh Trần Phước vì không đối chiếu được quan hệ lẫn nhau theo gia phả các nhánh còn lưu giữ…. Có thể tham khảo nguồn gốc họ Trần tại Quảng Nam tại các bài viết trên mạng.

III. LƯỢC SỬ TỘC TRẦN VĂN-CÂU QUẢNG

Tộc Trần Văn-Câu Quảng là một trong các tộc họ định cư trên đất Lang Châu,  tổng Mậu Hòa Trung, phủ Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam nay là khối phố Đình An, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Tính từ đời thứ 1 đến nay đời thứ 12, tộc Trần Văn “Câu Quảng” đã định cư trên 250 năm, thời gian tộc Trần Văn Câu Quảng định cư trên đất Lang Châu còn ít hơn nhiều so với một số tộc họ khác.

Các vị thỉ tổ tộc Trần Văn Câu Quảng đầu tiên đến định cư trên bến sông chợ Cũi, Tiệm Rượu bằng ghe, thuyền. Thời đó bến sông chợ Cũi, Tiệm Rượu là một nơi tụ họp buôn bán đông đúc bên hữu ngạn dòng sông Thu Bồn xuôi về phố Hội, khách thập phương đến giao lưu buôn bán rất nhiều, nhất là ở Tiệm Rượu (Trường Rượu) có đại lý hãng rượu SIKA nổi tiếng của Pháp nên việc buôn bán giao thương rất nhộn nhịp.

Cư dân tộc Trần Văn Câu Quảng sống trên ghe thuyền nên có thể là dân vạn chài hoặc là thương nhân buôn bán trao đổi hàng hóa trên. Sau này con cháu dòng họ Trần Văn Câu Quảng bỏ ghe thuyền lên định cư trên bờ, do không có đất công nên phải mua đất tư để ở, ban đầu anh em con cháu ở liền kề bên nhau dần dần xây dựng thành làng và đặt tên là làng Câu Quảng, làng Câu Quảng được chính quyền sở tại công nhận và bổ nhiệm Lý trưởng để cai quản, làng Câu Quảng có rất ít các họ tộc khác ở xen lẫn vào nên toàn bộ Lý trưởng và cả các chức Hương, Bộ đều do con cháu trong tộc thay nhau nắm giữ.

Để phân biệt với các tộc Trần Văn khác tại địa phương, ngay từ ban đầu các vị tiền bối khi gọi tên tộc thường gọi là Trần Văn-Câu Quảng. Từ đó tên của tộc luôn kèm theo danh xưng làng Câu Quảng cho đến ngày nay.

Ông thỉ tổ của tộc Trần Văn Câu Quảng là ông Trần Văn Công, trên gia phả không ghi tên bà. Con ông Trần Văn Công là ông Trần Văn Kế cũng không thấy ghi tên bà trên gia phả. Con ông Trần Văn Kế là ông Trần Văn Gạo cũng không ghi tên bà trên gia phả. Ba ông lần lượt là đệ nhất, đệ nhị, đệ tam thế tổ của tộc Trần Văn Câu Quảng.

Ông Trần Văn Sanh là đời thứ tư với bà chánh thất Châu Thị Trinh sanh hạ được 2 người con trai và ba người con gái, với bà thứ thất Văn Thị Cảnh sanh hạ thêm 6 người con trai nữa, con cháu đến đời thứ 6 đã phát triển tương đối nhiều. Tám người con trai của ông Trần Văn Sanh lập thành 8 phái từ phái nhất đến phái tám, tuy nhiên phái 6 và phái 7 bị tuyệt tự nên trong gia phả tộc không thấy ghi phả hệ con cháu phái 6 và 7. Các phái nhất, nhì, ba, tư, năm, tám đều sinh con để cháu cho đến ngày nay.

Đến nay tộc Trần Văn Câu Quảng đã sinh đến đời thứ 12. Con cháu trong tộc ngoài một số rất ít làm nghề nông, số còn lại làm nghề thủ công nghiệp mà chủ yếu là thợ mộc, một số làm nghề buôn bán, số ít làm công chức chính quyền qua các thời kỳ.

Con cháu tộc Trần Văn Câu Quảng có tinh thần hiếu học, mọi gia đình đều cố gắng cho con cháu học hành để thoát nghèo, có người đỗ đến tiến sĩ y khoa, thạc sĩ CNTT, kinh tế, số tốt nghiệp đại học cũng đã khá nhiều. Tuy nhiên con đường khoa bảng của con cháu trong tộc cũng không mấy hanh thông, người thực sự giỏi có đóng góp lớn cho học thuật và cho xã hội cũng chưa thấy xuất hiện.

Về đời sống kinh tế thì con cháu trong tộc đến nay cũng chỉ mới có tầng lớp trung lưu cấp thấp trở xuống, chưa có người có tích sản lớn, chưa có chủ hãng buôn hoặc hãng sản xuất có nguồn lực lớn.

Con cháu trong tộc hiện sống rải rác khắp nơi, số ít ở Hà Nội, Thanh Hóa (phái 8), số tương đối nhiều ở Quảng Nam, Đà Nẵng (phái 1,2,3,4,5), số ít ở Nha Trang (phái 1,3), Đồng Nai (phái 4), Daklak, DakNong (phái 1,3), số không nhiều ở Sài Gòn (phái 3, 4). Một số ít định cư nước ngoài như: Hoa Kỳ, Canada, Nhật, Úc (phái 3,4). Tổng số người toàn tộc hiện đang sinh sống khắp nơi nói trên chừng khoảng trên dưới 400 người (số liệu thống kê chưa đầy đủ trong đợt trùng tu gia phả tộc năm 2016 – 2017).

Dưới đây là bài nghiên cứu của anh Trần Công Tân (đời thứ 9, phái 3) về cuội nguồn của tộc Trần Văn Câu Quảng, xin giới thiệu để con cháu trong tộc đọc và tham gia nghiên cứu về cuội nguồn của tộc chúng ta.

“Cội nguồn Tộc Trần Văn Câu Quảng”

Tổ tiên tộc Trần Văn Câu Quảng chúng ta phát tích từ miền Bắc di cư vào Quảng Nam vào đời vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786) bằng thuyền, tính đến nay được 12 đời, gần 360 năm. Về gốc tích quê quán ở miền Bắc không được ông bà truyền lại, nhưng theo lời truyền miệng của các bậc cao niên, có lẽ ông bà ta là người gốc Thanh Hóa.

Ông tổ đầu tiên là cụ Trần Văn Công, đã cùng gia đình di cư vào Nam bằng thuyền, lúc ban đầu ở ghe tại vạn chợ Củi, nằm phía tả ngạn sông Thu Bồn, gần đầu cầu Câu Lâu hiện nay (1740 – 1786)

Đến đời thứ 3 là cụ Trần Văn Gạo, làm ăn khá giả mới bắt đầu mua đất làng Lang Châu lập gia cư khoảng cuối thế kỹ 18, đời vua Cảnh Thịnh (1792 – 1802). Làng Lang Châu nằm phía hữu ngạn sông Thu Bồn, đối diện vạn đò chợ Củi, hiện nay thuộc thôn Tiệm Rượu, gân chân cầu Câu Lâu. Tiệm Rượu là nơi người Pháp lập hãng rượu Sika, là nơi sản xuất và phân phối rượu trắng nổi tiếng, độc quyền của Pháp tại Quảng Nam, trước đây có đò ngang phục vụ nhân dân qua lại hai bờ.

Đến đời thứ 4, cụ Trần Văn Sanh nhờ buôn bán các loại nông lâm thổ sản  như tiêu, quế, đường và tơ lụa, vải vóc từ Quảng Nam đi các nơi bằng ghe bầu theo đường biển trở nên giàu có, ông có hai đời vợ, sinh được 8 người con trai và 3 người con gái. Con cái đều làm ăn khá giả, tiếp tục mua đất đai của Lang Châu để ở, các khu gia cư liền kề nhau, tạo nên một quần thể đông đúc và hình thành xóm, làng toàn người tộc Trần Văn, trong tập thể đông đúc này có vài gia đình tộc Đào và tộc Nguyễn (đời Minh Mạng 1820 – 1841)

Thời gian này con cháu đã đông, đủ điều kiện lập nên một làng, ông bà ta xin phép chính quyền lập nên làng Câu Quảng (đời Thiệu Trị 1841 – 1847). Đây là ngôi làng có địa danh mà không có địa phận, dân làng Câu Quảng hầu hết là con cháu tộc Trần Văn, nên các chức sắc trong làng toàn là người trong tộc. Vị lý trưởng đầu tiên của làng Câu Quảng là cụ Trần Văn Thu, đời thứ 5. Trên địa bàn lân cận làng Câu Quảng có rất nhiều tộc Trần, ở Mỹ Xuyên Tây – Mã Châu có đến 8 tộc Trần, có 3 tộc Trần Văn và các tộc Trần Viết, Trần Hữu, Trần Tấn, Trần Phước, Trần Đức. Do đó mỗi tộc Trần phải kèm theo đại danh để dễ phân biệt, ví dụ Trần Văn – Xuyên Tây, Trần Văn – Bầu Cua … nên khi có làng Câu Quảng thì tộc Trần Văn chúng ta gọi là Trần Văn  Câu Quảng.

Khoảng thời gian này có lẽ tộc ta đã lập Nhà thờ tộc.

Đến đời thứ 7, ông bà ta mới lập tộc phả. Theo tộc phả lập năm 1939, tộc phả trước đó đã bị binh hỏa nên thất lạc, không lưu lại bút tích nào cả. Tộc phả năm 1939 viết bắt đầu từ ông Tổ vào định cư ở Quảng Nam đến đời thứ 5. Tám người con trai cụ Trần Văn Sanh (đời thứ 4) là người đứng đầu 8 phái sau này, mỗi phái giữ một quyển .

Từ năm 1945 đến 1975 đất nước giặc giả triền miên, thiên tai lũ lụt xảy ra hằng năm, đặc biệt trận lụt năm Thìn (1964) cuốn trôi làng mạc, đất đai, gia cư nhà thờ tộc Trần Văn Câu Quảng bị cuốn theo dòng nước mất hết.

Giặc giả, lũ lụt bà con tộc ta phải chạy tản mác khắp nơi và đến nay đa phần định cư ở các nơi khác, hiện nay ở thị trấn Nam Phước chỉ còn dưới 30 gia đình ở phân tác trong thị trấn.

Sau 40 năm loạn lạc, con cháu tản mác khắp bốn phương trời, nhu cầu cấp bách để con cháu khỏi quên cội nguồn, nhất là qua nhiều thập kỷ, nhiều thế hệ đã ra đời, nên năm 1999 HĐGT quyết định trung tu gia phả tộc, lấy bản tộc phả lập năm 1939 của Phái tư là bản duy nhất còn lại do ông Trần Nguyên (đời thứ 8) giữ lại làm nguồn gốc. Ban trùng tu gia phả do ông Trần Nguyên làm Trưởng ban, ông Trần Ngân làm Phó ban (đời thứ 8) và ông Trần Huynh (đời thứ 9) làm thư ký cùng một số vị ở các phái giúp sức. Về kinh phí lập gia phả do con cháu ông Trần Xuân Diên (đời thứ 8) và ông Trần Lộc (đời thứ 8) đài thọ

Năm 2009, bầu cử HĐGT ông Trần Huấn (đời thứ 9) làm Chủ tịch HĐGT có đề xuất trùng tu gia phả lần 2 do nhận thấy tộc phả lập năm 1999 có nhiều khiếm khuyết, sai sót. Thời gian này việc xây dựng nhà thờ còn nhiều hạng mục chưa xong, nên HĐGT lo hoàn thành việc xây dựng nhà thờ, chưa trùng tu tộc phả. Năm 2015, bầu cử lại HĐGT, ông Trần Huấn tái đắc cử Chủ tịch HĐGT mới tái khởi động trùng tu tộc phả, ấn định thời gian 2 năm tộc phả sẽ hoàn thành vào ngày 10/3/Đinh Dậu (2017) do ông Trần Huynh làm Trưởng ban trùng tu tộc phả.

Nghĩa trang tộc hiện nay tạo lạc tại xóm Mỹ An, khối phố Đình An, thị trấn Nam Phước. Trước đây việc chôn cất người quá cố theo sự chỉ dẫn của cac thấy địa lý, mồ mã phân tác nhiều nơi. Năm 1975 chính quyền cấp đất tại Mỹ An theo từng tộc, tất cả mồ mã được quy tập về một chỗ. Sau đó HĐGT cho trùng tu nghĩa trang, tất cả mồ mã đã được sửa sang, trông rất tôn nghiêm và mỹ quan.

Nhà thờ tộc được lập đầu tiên có lẽ vào thời gian lập làng Câu Quảng, không biết trước đó đã trùng tu lần nào chưa. Khuôn viên ngôi từ đường 500 m2 tạo lạc tại Lang Châu, ấp An Bình, thôn Tiệm Rượu. Năm 1939 HĐGT cho tu tạo lại Nhà thờ, chiến tranh 1945 – 1954 nhà thờ bị tàn phá. Năm 1955 tộc xây dựng lại nhà thờ tại địa điểm cũ. Chiến tranh và lũ lụt làm nhà thờ bị tàn phá và lũ lụt cuốn trôi, dất đai nhà thờ lở xuống sông.

Năm 1990, HĐGT lúc này do ông Trần Đề làm Chủ tịch đã vận động con cháu xây dựng lại nhà thờ trên lô đất do ông Trần Cao Hoa (đời thứ 8) nhượng lại  tại xóm Mỹ An khối phố Đình An, thị trấn Nam Phước, gần khu nghĩa trang tộc. Năm 1999 vì kinh tế khó khăn nên ngôi chính điện xây dựng hơi nhỏ, năm 2007 HĐGT quyết định xây dựng ngôi chính điện có mái bằng bê tông cốt thép, ngôi chính điện cũ được giữ lại làm Tiền đường. Ông Trần Cao Hoa cúng thêm đất để xây dựng nhà trù (nhà bếp).

Việc xây dựng nhà thờ kéo dài từ năm 2000 đến năn 2007 mới hoàn thành.

Về đời sống hằng ngày, ông bà ta khi mới vào Quảng Nam sống tại vạn đò Chợ Củi, sinh sống bằng buôn bán và chài lưới (theo tộc phả lập năm 1939 “sinh lý ngư nghiệp, thương mại”). Đến đời thứ 3 đã định cư trên đất Lang Châu, làm nghê buôn bán nông lâm thổ sản và đến đời thứ 4 thì buôn bán bằng ghe bầu vào Nam ra Bắc bằng đường biển. Các thế hệ con cháu sinh sôi nẩy nở, có gia đình di cư vào Tiên Phước, Tam Kỳ, Đại Lộc định cư và làm nhiều ngành nghề như buôn bán, thầy thuốc, dạy học… Đặc biệt tại quê nhà, con cháu làm nghề thợ mộc chiếm đa số. Ông Trần Nhược (đời thứ 8) tức ông Xã Ba là người phát triển và truyền nghề cho con cháu đương thời, hiện nay còn rất nhiều người đang làm nghề này.

Hiện nay con cháu tộc Trần Văn Câu Quảng đã định cư khắp mọi miền đất nước và nước ngoài, làm đủ ngành nghề như xây dựng,  buôn bán, công nhân, viên chức, bác sĩ, kỹ sư …

Đời sống văn hóa, các thế hệ trước từ đời thứ 1 đến đời thứ 5 học chữ Nho, chủ yếu là biết đọc biết viết. Đời thứ 6 về sau có người học chữ Nho và đã đi thi trường tỉnh như ông Trần Văn Đạt (đời thứ 7)

Đến thập niên 40 mới có ông Trần Văn Tình, ông Trần Lộc con ông Trần Văn Chiến (đời thứ 7) đi học Trung học ở Huế.

Chiến tranh 1945 – 1975, kéo dài 30 năm, sự học hành bị gián đoạn, chỉ có một số ít gia đình cho con ăn học đến hết cấp 2.

Sau năm 1975 sự học càng ngày càng được quan tâm và đến nay con cháu trong tộc tốt nghiệp đại học, trên đại học gồm nhiều ngành nghề như kỹ sư, kiến trúc sư, cử nhân, bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ …

Qua quá trình gần 300 năm từ một gia đình, nay trở nên một tộc Trần Văn Câu Quảng, trải qua bao nhiêu gian nan khổ nhọc, ông bà tổ tiên chúng ta đã có một kết quả đáng tự hào. Được như ngày nay do ông bà chúng ta sống luôn lấy đạo đức làm căn bản để giáo dục cháu con, lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm phương hướng dạy dỗ các thế hệ nối dòng

Chúng ta là con cháu, hãy cố gắng phát huy truyền thống cha ông, xây dựng gia đình, tộc họ ngày càng phát triển góp phần xây dựng xã hội phồn vinh

Duy Xuyên, ngày 06 tháng 4 năm 2017

BAN TRÙNG TU GIA PHẢ