Tộc Ước
Trần Văn "Câu Quảng"
I.LỜI NÓI ĐẦU
Theo truyền thống của dân tộc Việt Nam thì gia đình, tộc họ, xóm làng là nền tảng của xã hội, quốc gia.
Với dân tộc Việt Nam, tộc họ là một đại gia đình, tất cả các thành viên trong đại gia đình có chung một dòng máu, một tổ tiên. Con cháu trong tộc chịu sự chi phối rất lớn về mặt tinh thần của tộc họ. Vinh nhục, thăng trầm của mỗi thành viên đều ảnh hưởng đến danh dự tiếng tăm của đại gia đình tộc họ.
Việc quản lý gia tộc từ xưa đến nay dựa trên “Lệ bất thành văn” đã lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, được giữ gìn một cách có truyền thống và bất di bất dịch trong cộng đồng gia tộc sống gần gủi bên nhau.
Đến nay vào thế kỷ thứ XXI, sự tiến bộ và nhu cầu vượt bực trên mọi lãnh vực, cộng đồng gia tộc vì nhiều nguyên nhân đã mở rộng không gian sinh tồn, không còn quây quần bên nhau nên cần có những quy ước cụ thể bằng văn bản để gắn bó các thành viên của gia tộc dựa trên những nhận thức phù hợp sự tiến bộ, bảo tồn quá khứ, phát huy tinh hoa của tổ tiên và loại bỏ những gì không còn phù hợp với xã hội đương thời.
Bản tộc ước này được biên soạn căn cứ vào tục lệ truyền thống của tổ tiên, bổ sung một số yêu cầu hiện tại.
Nội dung cơ bản của Tộc ước gồm quy định cách thức quản lý gia tộc, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận của các thành viên đối với gia tộc.
Tộc ước có các phần như sau:
- Lời nói đầu
- Lược sử tộc Trần Văn – Câu Quảng
- Các ngày và nghi lễ giỗ chạp của Tộc và các Chi Phái
- Tổ chức Gia Tộc
- Tài chính và các quỹ của Tộc
- Các quy định về tri ân tiền nhân và khen thưởng con cháu
- Các quy định về hôn phối, gia đình
- Nghĩa vụ con cháu đối với ông bà, cha mẹ
- Các quy định về việc tham dự lễ hội với địa phương
- Các quy định về hiếu, hỷ trong gia tộc
- Lời kết
II.LƯỢC SỬ TỘC TRẦN VĂN “CÂU QUẢNG”
Tộc Trần Văn-Câu Quảng là một trong các tộc họ định cư trên đất Lang Châu, phủ Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam nay là khối phố Đình An, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Tính từ đời thứ 1 đến nay đời thứ 12 thì tộc Trần Văn “Câu Quảng” đã định cư được trên 250 năm, so với một số tộc họ khác tại địa phương thì thời gian tộc Trần Văn “Câu Quảng” an cư lạc nghiệp trên đất Lang Châu còn trẻ hơn nhiều, có tộc họ đã đến đời thứ 24 tính ra đã hơn 500 năm.
Do đến định cư sau nên tộc Trần Văn “Câu Quảng” không có đất công, toàn bộ con cháu trong tộc đều mua đất tư để ở. Tuy ở đất tư, ban đầu anh em con cháu ở liền kề nên tộc xây dựng làng Câu Quảng riêng tách ra khỏi Làng Xuyên Đông và được chính quyền đương thời công nhận và đưa vào sổ bộ quản lý tên Làng Câu Quảng đồng thời bổ nhiệm Lý trưởng để cai quản. Do cư dân làng Câu Quảng hầu hết là con cháu tộc Trần Văn nên từ Lý trưởng đến các chức Hương, Bộ đều do con cháu trong tộc thay nhau nắm giữ từ đời này qua đời khác.
Tại địa phương có nhiều tộc mang tên Trần Văn, để phân biệt với tộc Trần Văn khác các vị tiền bối của tộc và địa phương khi gọi tên tộc thường gọi là tộc Trần Văn gắn liền với tên làng Câu Quảng cho nên từ xưa tên tộc luôn gắn liền “Câu Quảng” trở thành tộc Trần Văn-Câu Quảng, đến nay con cháu trong tộc theo truyền thống đó gọi tên tộc là Trần Văn-Câu Quảng.
Gia phả tộc thứ nhất bị cháy do binh lữa vào triều vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng (1740 – 1786), đến năm 1939 năm Kỷ Mão (tức là 199 – 153 năm sau khi gia phả thứ nhất bị cháy), nhân việc hoàn thành xây dựng lại nhà thờ, các vị tiền nhân đời thứ 7 tụ họp tại Từ đường, có ông học trò sổ Văn Phú Quý ghi chép, thiết lập trùng tu Gia phả tộc thứ hai. Trong gia phả tộc thứ hai ghi ông Thỉ tổ Trần Văn Công, đệ nhị thế tổ Trần Văn Kế, và đệ tam thế tổ Trần Văn Gạo không thấy ghi tên các bà. Đến đời thứ 4 ông Trần Văn Sanh có hai bà vợ là bà Châu Thị Trinh là chánh thất và bà Văn Thị Cảnh là thứ thất.
Gia phả tộc thứ hai không ghi nguồn gốc của tộc, chỉ ghi Thỉ tổ Trần Văn Công có gốc miền Bắc nhưng sinh ra lớn lên tại miền Nam cho nên đến nay tuy có nhiều trăn trở, và con cháu nhiều đời ra sức tìm kiếm nhưng vẫn chưa xác định được quê hương bản quán của tộc.
Ông Trần Văn Sanh với bà chánh thất sanh hạ được 2 người con trai và 3 người con gái; với bà thứ thất sanh hạ thêm 6 người con trai, tổng cộng trai gái hai đời là 11 người. Gia phả ghi tộc chia ra thành 8 phái gồm Phái nhất, Phái nhì (con bà chánh thất), Phái ba đến Phái tám (con bà thứ thất). Phái sáu và Phái bảy thất truyền nên thực tế chỉ còn 6 phái. Phái nhì sau này theo đạo Công giáo nên ra khỏi tộc, hiện tại tộc chỉ còn 5 phái gồm: Phái nhất, Phái ba, Phái tư, Phái năm và Phái tám.
Gia phả tộc thứ hai lập thành 8 bản giao cho mỗi phái lưu giữ một bản. Tuy nhiên sau nhiều biến đổi thăng trầm của lịch sử và thiên tai, địch họa, chỉ còn bản Gia phả tộc bằng tiếng Hán của Phái tư lưu giữ tại nhà ông Trần Trừ (đời thứ 7), năm 1965 chiến tranh ác liệt, bà Huỳnh Thị Khương vợ ông Trần Trừ mang Gia phả đi tản cư, đến năm 1968 giao cho con trai là ông Trần Nguyên lưu giữ, năm 1970 ông Trần Nguyên đã cung thỉnh các thầy ở chùa An Hòa dịch bản Gia phả từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ để con cháu tiện sử dụng.
Năm 2000, theo nguyện vọng của con cháu toàn tộc, ông Trần Công Tân đã phát nguyện tiến cúng chi phí trung tu Gia phả tộc. Năm 2001 bản Gia phả tộc thứ ba bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ đã được trùng tu và phát hành cho tất cả các Chi, Phái của tộc lưu trữ.
Việc trùng tu, cập nhật Gia phả tộc có ý nghĩa rất lớn trong việc duy trì sự tồn tại và phát triển họ tộc. Quy ước cứ sau 5 đến 10 năm sẽ trùng tu, cập nhật gia phả một lần. Hội đồng gia tộc thành lập Ban trùng tu gia phả gồm những người có tâm, nhiệt tình, trình độ … để thực hiện việc trùng tu gia phả. Các chi phái tộc lập tiểu ban thu thập thông tin theo mẫu của Ban trùng tu gia phả tộc phát hành gửi về trang web tộc tại địa chỉ: tranvancauquang.vn
III.CÁC NGÀY GIỖ CHẠP VÀ NGHI LỄ GIỖ CHẠP
Hội nghị HĐGT thường niên ngày 09/5/2007 (23/3/Đinh Hợi) đề nghị và đã thông qua toàn thể con cháu nội ngoại về dự giỗ tộc ngày 10/5/2007 (24/3/Đinh Hợi) thống nhất quyết định chọn ngày 10/3/Âm lịch là ngày giỗ tộc hằng năm, trùng ngày Giỗ tổ Hùng Vương (là quốc lễ được nghỉ làm việc) để con cháu có cơ hội về dự ngày giỗ tộc.
Các ngày lễ tết và giỗ tộc là truyền thống thiêng liêng của dân tộc và dòng họ nên việc tổ chức phải hết sức trang nghiêm, đúng lễ nghi, đầy đủ các quy định, không được vì đơn giản mà tiết chế hời hợt. Đồng thời là ngày hội của con cháu có điều kiện về cố hương viếng ông bà tổ tiên nên con cháu về dự phải trên tinh thần đoàn kết trong tình anh em ruột thịt, không vì bất cứ mâu thuẫn nào mà làm cho ngày giỗ, tết mất ý nghĩa, có tội với ông bà, xóm làng chê cười. Trách nhiệm của Hội đồng gia tộc là tổ chức thành công và rút kinh nghiệm cho từng năm để đúc kết truyền lại cho con cháu đời sau.
- Tết nguyên đán.
- Sáng ngày 28 tháng chạp âm lịch, lúc 10 giờ cữ hành lễ cúng đất và lễ rước ông bà tại Nhà thờ (nếu năm có tháng chạp thiếu – 29 ngày, thì tổ chức vào ngày 27 tháng chạp)
- Sáng ngày mồng 01 và 02 Tết, cúng ông bà, con cháu có dịp về dâng hương tưởng nhớ ông bà tổ tiên.
- Sáng ngày mồng 03 Tết, lúc 10 giờ cữ hành lễ đưa tiễn ông bà.
Cúng lễ tết có chiên, trống nhưng không có nhạc lễ và văn cúng. HĐGT căn cứ điều kiện thực tế phân công các chi phái tộc trực tết tại Nhà thờ .
- Giỗ tộc ngày 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm
- Ngày giỗ tộc là ngày giỗ chung ông bà khai sinh, kế tục và tất cả những người đã khuất của dòng tộc. Thành phần tham dự là con cháu nội ngoại, dâu rễ và khách mời.
- Chiều 09 tháng 3 Âm lịch lúc 15:00 lễ cúng đất và cúng tiên thường (có nhạc lễ, chiên trống, có bài văn cúng kể công lao thần hoàng, tiền hiền có công khai khẩn đất đai, quê hương nơi tộc định cư), Chánh bái là vị cao tuổi trong tộc sống tại địa phương.
- Lúc 19:00 cùng ngày, Hội đồng gia tộc họp để xem xét đánh giá công tác chuẩn bị cho ngày giỗ tộc đã giao cho Ban tổ chức, xét học bổng cho con cháu, quyết toán thường niên các quỹ của tộc và các công việc phát sinh khác nếu có.
- Sáng 10 tháng 3 Âm lịch,
+ Lúc 8:00 Ban nghi lễ chủ trì, con cháu dâng hương khu mộ tộc,
+ Từ 8:30 đến 10:00 lễ giỗ tộc (có nhạc lễ, chiên trống, có bài văn cúng kể công lao ông bà, tổ tiên và truyền nhân đời đời sinh hạ con cháu toàn tộc, tất cả những người con của tộc đã khuất),
– Hội đồng gia tộc chọn Chánh bái và Tả, Hữu bang theo thực tế hằng năm
– Các vị trong ban nghi lễ mặc quốc phục truyền thống có sẵn tại Nhà thờ
+ Từ 10:00 đến 11:30 Hội đồng gia tộc công bố mừng thọ cho bô lão trong tộc, cấp học bổng cho con cháu, công bố các quỹ của tộc và chương trình khác của tộc nếu có.
+ Từ 11:45 con cháu dự cơm trưa thân mật
+ Từ 14:00 – 15:00 Ban tổ chức hoàn thành quyết toán chi phí với Hội đồng gia tộc và hoàn thành việc tổ chức, kết thúc lễ giỗ tộc, con cháu chia tay nhau trong tình thân ái về lại nơi ở.
- Tết Đoan ngọ
- Sáng ngày 05 tháng 5 Âm lịch, cúng ông bà tổ tiên tại Nhà thờ (có chiên, trống nhưng không có nhạc lễ và văn cúng).
- Các ngày giỗ kỵ tại gia đình con cháu
Tộc không hạn chế con cháu cúng giỗ ông bà, cha mẹ và nhân đó đoàn tụ anh em, người thân tại gia đình để tưởng niệm nhớ ơn công ơn ông bà, cha mẹ.
IV.TỔ CHỨC GIA TỘC
Hội đồng gia tộc (HĐGT) được bầu cử theo phương thức phổ thông đầu phiếu hoặc bầu theo phương thức nhất trí đề cử, tất cả con cháu trai từ 20 tuổi trở lên của tộc TRẦN VĂN – CÂU QUẢNG đều có quyền bầu cử và ứng cử vào HĐGT. Nhiệm kỳ của HĐGT là 5 năm
Thành phần HĐGT gồm có: Chủ tịch, Phó chủ tịch và các uỷ viên. HĐGT có các Ban: Ban tổ chức giỗ tộc, Ban cập nhật gia phả, Ban khuyến học, Ban xây dựng.
Trưởng tộc là người con trưởng còn sống trong tộc. Trưởng tộc giữ vị trí chánh bái trong ngày lễ giỗ tộc và các lễ khác nếu có. Người thay thế Trưởng tộc trong trường hợp cần thiết là người con kế con trưởng theo thứ tự trong gia phả. Trong trường hợp đặc biệt, Chủ tịch HĐGT có thể thay thế Trưởng tộc.
Nhiệm vụ HĐGT
- Quản lý tài sản của tộc bao gồm đất đai, bất động sản, động sản và tiền quỹ của tộc
- Tổ chức lễ giỗ tộc hằng năm và các lễ khác nếu có
- Tổ chức mừng thọ, tri ân tiền nhân, cấp phát học bổng hằng năm
- Tổ chức cập nhật Gia phả tộc theo định kỳ.
- Quan hệ với các Chư phái tộc, Chính quyền và các tổ chức xã hội tại địa phương
V.TÀI CHÍNH VÀ CÁC QUỸ CỦA TỘC
Quỹ thường trụ: Dùng cho lễ giỗ tộc, lễ rước, đưa ông bà tết nguyên đán, lễ tết đoan ngọ hằng năm và chi cho công việc thường xuyên của Tộc. Quỹ này do con trai của tộc từ 20 đến 65 tuổi đóng góp hằng năm, mỗi người đóng số tiền tương đương 20 kg gạo. Con cháu gái, cháu ngoại và con trai trên 65 tuổi hảo tâm đóng góp. Kế toán và Thủ quỹ tộc có trách nhiệm quyết toán báo cáo HĐGT hầng năm. Số dư của quỹ được gửi ngân hàng theo quy tắc đáo hạn trước ngày giỗ tộc 15 – 20 ngày.
Quỹ khuyến học Trần Văn-Câu Quảng: Dùng tiền sinh lợi của quỹ qua việc gửi ngân hàng để chi cho học bổng khuyến học và hoạt động của quỹ hằng năm. Quỹ này do con cháu và các mạnh thường quân đóng góp. Ban khuyến học quản lý Quỹ khuyến học và có trách nhiệm quyết toán báo cáo HĐGT hằng năm. Số dư của quỹ được gửi ngân hàng theo quy tắc đáo hạn trước ngày giỗ tộc 15 – 20 ngày.
Quỹ Xây dựng: Dùng cho việc xây dựng các công trình của tộc như Nhà thờ, trùng tu Khu mộ tộc, trùng tu gia phả tộc. Quỹ này do con cháu trong tộc đóng góp theo lời kêu gọi của HĐGT khi có các dự án xây dựng của tộc hoặc đóng góp hằng năm. Số dư của quỹ nếu có sẽ được gửi ngân hàng theo quy tắc đáo hạn trước ngày giỗ tộc 15 – 20 ngày.
Chủ tịch và Kế toán HĐGT có trách nhiệm quản lý, quyết toán, báo cáo cho tộc trong ngày giỗ tộc hằng năm các Quỹ của tộc gồm Quỹ thường trụ, Quỹ khuyến học và Quỹ xây dựng.
VI.CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRI ÂN TIỀN NHÂN VÀ KHEN THƯỞNG CON CHÁU
Con cháu toàn tộc luôn luôn ghi nhớ công đức sinh thành, dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đồng thời luôn luôn tri ân những người trong tộc có công gìn giữ bảo tồn tộc phả và các nghi lễ của họ tộc, góp phần xây dựng trùng tu từ đường mộ tộc, đóng góp xây dựng quỹ học bổng của tộc cho sự phát triển của con cháu mai sau. Các hình thức tri ân như sau:
- Ghi sổ vàng gia tộc: Con cháu trong tộc có đóng góp nhiều về công sức và tiền của cho tộc, con cháu học hành đổ học vị cao từ Thạc sĩ trở lên, con cháu làm việc được bổ nhiệm quan chức từ cấp quận, huyện trở lên, Giám đốc Công ty trở lên, các vị ân nhân ngoại tộc có công lớn đóng góp cho tộc… sẽ được Hội đồng gia tộc xem xét ghi tên vào Sổ vàng gia tộc.
- Treo ảnh lên tiền đường: Con cháu có công lớn đóng góp lớn cho sự tồn tại và phát triển của tộc, có đóng góp đặc biệt về công sức và tiền của cho tộc, có học vị tiến sĩ, có các phát minh, sáng chế được nhà nước, các tổ chức quốc tế có uy tín công nhận, làm việc được bổ nhiệm từ cấp lãnh đạo chánh phó cấp tỉnh trở lên,… sẽ được Hội đồng gia tộc xem xét, quyết định công nhận treo ảnh kỷ niệm tại tiền đường Nhà thờ tộc.
- Học bổng : Con cháu nội ngoại trong tộc có thành tích học tập giỏi, thi đỗ vào các trường Đại học, tốt nghiệp đại học trong ngoài nước được Hội đồng gia tộc xét cấp học bổng hằng năm. Con cháu nội ngoại có phát minh, sáng chế, có các công trình đặt biệt được nhà nước, và các tổ chức quốc tế có uy tín công nhận sẽ được xem xét và cấp học bổng khen thưởng đặc biệt.
VII. CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÔN PHỐI, GIA ĐÌNH
Con cháu trong toàn tộc phải tuân theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình của Nhà nước Việt Nam, tuy nhiên Tộc ước quy định những điều bắt buộc sau đây mà Luật hôn nhân và gia đình chưa nêu
- Hôn nhân không đồng tánh: Nhằm để bảo đảm nguồn gene không cận huyết cho con cháu muôn đời mai sau, con cháu tộc Trần Văn Câu Quảng tuyệt đối không được phép hôn phối với người Việt Nam cùng mang họ Trần cho dù người đó ở bất cứ nơi nào. Ông bà, cha mẹ phải truyền đạt cho con cháu hiểu, biết để tránh tình trạng hôn nhân đồng tánh.
- Hôn nhân không đồng chủng: Tộc không cấm hôn nhân khác chủng tộc Việt- Kinh, tuy nhiên nếu con trai hôn phối với người khác chủng thì phải bảo đảm con cái sinh ra mang dòng họ Trần Văn Câu Quảng và cố gắng giữ gìn phong tục tập quán, ngôn ngữ của người Việt Kinh tránh để mất gốc.
- Hôn nhân một vợ một chồng: Tộc quy định con cháu chỉ được hôn nhân một vợ một chồng nhằm bảo đảm hạnh phúc gia đình.
VIII.NGHĨA VỤ CỦA CON CHÁU VỚI ÔNG BÀ, CHA MẸ
Tộc Trần Văn-Câu Quảng từ ông Thỉ tổ đến nay gần 300 năm, trải qua được 12-13 đời. Con cháu bây giờ vì nhiều lý do khác nhau đã định cư khắp nơi. Là con cháu ta nhớ câu “uống nước nhớ nguồn; chim có tổ người có tông”, nên dù ở nơi đâu con cháu cũng nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn. Việc thờ phụng ông bà không thể nói tin hay không, vì ông bà chúng ta là một SỰ THẬT chứ không phải như các tôn giáo thờ các đấng thần linh vô hình, tộc ta có câu “Phụng tổ tiên, Phúc lai thành” nghĩa là thờ phụng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ thì tự nhiên phúc đức sẽ đến với ta.
Việc thờ phụng Tổ tiên là bổn phận, là biểu hiện chữ HIẾU của con cháu đối với ông bà, cha mẹ đã khuất. Khi ông bà, cha mẹ còn sống thì nghĩa vụ lớn nhất của con cháu là phải nuôi nấng, phụng dưỡng, tạo mọi điều kiện tốt nhất có thể được để ông bà, cha mẹ được sống đầy đủ, hạnh phúc, không vì bất cứ lý do gì mà hất hủi, đùn đẩy, bỏ bê gây ra đại tội bất hiếu.
Ngoài việc tôn thờ, phụng dưỡng thì trách nhiệm lớn lao nhất là giáo dục cho các thế hệ mai sau có ý thức “uống nước phải nhớ lấy nguồn”, có đầy đủ tri thức đạo đức làm người, góp công sức xây dựng gia đình, xã hội và đất nước vững mạnh, có tinh thần rèn luyện học tập, lao động miệt mài để làm giàu về tri thức và giàu có về của cải cho cá nhân và cho xã hội. Tuyệt đối không để bản thân và con cháu vi phạm pháp luật, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không có lối sống sa đoạ, không có các hành vi phi đạo đức, phi nhân phẩm
Con cháu trong toàn tộc là ruột thịt, là từ một giọt máu đào của tổ tiên sinh ra cho nên phải giữ lấy sự đoàn kết là phần cốt lõi để gắn kết anh em trong toàn tộc, không phân biệt Chi Phái, không phân biệt nội ngoại, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, không phân biệt học vấn, địa vị cao thấp. Phải gìn giữ tôn ti trật tự rõ ràng. Mọi mâu thuẫn phát sinh phải được thảo luận, dàn xếp trên tinh thần nhường nhịn, đoàn kết, bình tỉnh tìm ra chân lý lẽ phải, tuyệt đối không vì hơn thua mà lỗ mãng, mất đoàn kết, phát ra những lời nói cạn tình không rút lại được.
Con cháu trong toàn tộc khi về tham dự các ngày lễ hội của tộc không được mang các vấn đề chính trị ra bàn luận, gây ra mâu thuẫn do có thể có những quan điểm khác nhau sẽ rất dễ dẫn đến mất đoàn kết nghiêm trọng.
Vậy con cháu trong Tộc phải có nghĩa vụ
- Đóng góp đầy đủ quỹ tộc để giỗ chạp hằng năm
- Tham gia công việc xây dựng mọi mặt cho Tộc
- Cố gắng tham dự các ngày giỗ chạp hằng năm
- Giáo dục con cháu truyền thống tốt đẹp của Tộc họ
- Đoàn kết, trên thuận dưới hòa góp sức xây dựng Tộc ngày càng phát triển, rạng danh với xóm làng và nhất là đẹp lòng Chư vị tiên linh tổ tiên của chúng ta nơi chín suối
IX.CÁC QUY ĐỊNH VỀ THAM DỰ LỄ HỘI ĐỊA PHƯƠNG
Đại diện Hội đồng gia tộc sẽ thay mặt tộc tham dự các lễ hội của chính quyền, của làng ấp và của các Chư Phái Tộc trong địa phương khi được mời.
Kinh phí cho việc tham dự được Hội đồng gia tộc quy định theo định mức trong chi phí thường xuyên và được quyết toán báo cáo thu chi của tộc trong kỳ hợp Hội đồng gia tộc thường niên vào đêm mồng 09 tháng 3 âm lịch hằng năm.
X. CÁC QUY ĐỊNH VỀ HIẾU, HỶ TRONG BỔN TỘC
Do điều kiện con cháu ở phân tán cho nên khi gia đình con cháu có việc hiếu, hỷ mà HĐGT không có điều kiện để tham gia. Do đó vịêc hiếu, hỷ được quy định như sau:
- Khi có việc hiếu, hỷ thì gia đình cố gắng báo tin cho Đại diện HĐGT tại các địa phương biết và Đại diện HĐGT địa phương thông tin lại cho HĐGT. Tuỳ theo điều kiện xa gần, Hội đồng gia tộc sẽ trực tiếp hoặc uỷ quyền cho Đại diện HĐGT địa phương tham dự việc hiếu, hỷ tại gia đình con cháu.
- Đối với công việc hiếu sự: Tuỳ theo độ tuổi và công lao đóng góp cho Tộc họ, HĐGT quyết định nghi lễ cần thiết để trực tiếp tham dự hoặc uỷ quyền cho Đại diện HĐGT địa phương tham dự.
- Đối với công việc hỷ sự: Chủ yếu là cá nhân con cháu tham dự khi được mời.
XI.LỜI KẾT
Tộc ước là văn bản tập hợp những quy định của tổ tiên ông bà các đời trước và một số bổ sung cho phù hợp với hiện tại. Các nội dung của tộc ước có thể được HĐGT xem xét điều chỉnh bổ sung hằng năm theo đề nghị của con cháu để phù hợp với yêu cầu thực tiển.
Mọi thành viên trong tộc có trách nhiệm tôn trọng, phổ biến cho con cháu mình thực hiện Tộc ước. Nghiên cứu đề xuất HĐGT bổ sung hoặc sửa đổi để Tộc ước ngày càng rõ ràng, chính xác phù hợp với điều kiện theo mỗi thời đại, tạo điều kiện cho con cháu thực hiện tốt Tộc ước.
TỘC TRẦN VĂN – CẦU QUẢNG
HỘI ĐỒNG GIA TỘC